BARTENDER
Nồng nhiệt chào đón bạn gia nhập diễn đàn!!!!
Để đọc, viết bài được đầy đủ và tải tài liệu về thuận tiện hơn vui lòng đăng ký thành viên.
Hy vọng mang lại nhiều ích lợi, vui vẻ cho bạn!

Trân trọng!

Join the forum, it's quick and easy

BARTENDER
Nồng nhiệt chào đón bạn gia nhập diễn đàn!!!!
Để đọc, viết bài được đầy đủ và tải tài liệu về thuận tiện hơn vui lòng đăng ký thành viên.
Hy vọng mang lại nhiều ích lợi, vui vẻ cho bạn!

Trân trọng!
BARTENDER
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Latest topics
» Cùng tìm hiểu về rượu vang Ý
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyFri May 05, 2023 5:51 am by ruoungoaihn

» QUY TRÌNH LÀM KEM TƯƠI 4 BƯỚC VỚI MÁY LÀM KEM
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyTue Apr 25, 2023 4:58 pm by botlamkem_thucpham.com

» BỘT LÀM KEM TƯƠI “KHÔNG ĐƯỜNG” DUY NHẤT TẠI VIỆT NAM
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyFri Apr 07, 2023 4:59 pm by botlamkem_thucpham.com

» Kem sữa chua dưa hấu
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyMon Apr 03, 2023 4:54 pm by botlamkem_thucpham.com

» Đồ uống giải khát dễ làm dễ ghiền
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyMon Apr 03, 2023 4:50 pm by botlamkem_thucpham.com

» Bột Làm Kem Tươi Dùng Đường Ăn Kiêng
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptySat Apr 01, 2023 10:47 am by botlamkem_thucpham.com

» Món tráng miệng đắt nhất thế giới
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptySat Apr 01, 2023 10:41 am by botlamkem_thucpham.com

» RƯỢU VANG CHO NGƯỜI BẮT ĐẦU
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyTue Mar 14, 2023 9:01 am by ruoungoaihn

» nguoi moi can dc giup do
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyTue Mar 14, 2023 8:59 am by ruoungoaihn

» CÁCH TẠO BỌT SỮA ĐẠT CHUẨN ĐỂ PHA CAPPUCHINO – LATTE ART
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyFri Dec 13, 2019 4:58 pm by nuacuocdoi

» TEQUILA LÀ GÌ?
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyThu Dec 12, 2019 9:17 am by thaithanhbinh

» NHỮNG COCKTAILS DÀNH CHO MÙA GIÁNG SINH
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyThu Dec 12, 2019 9:06 am by thaithanhbinh

» Mùa đông ngọt ngào của vị kem sữa Baileys
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyWed Dec 11, 2019 4:02 pm by thaithanhbinh

» Cách nói xin chào – cảm ơn – tạm biệt bằng 40 ngôn ngữ.
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyWed Dec 04, 2019 11:31 am by thaithanhbinh

» 08 LÝ DO BẠN NÊN UỐNG BIA
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyMon Nov 25, 2019 4:50 pm by Admin

» Cocktail và những câu chuyện có thể bạn chưa biết…
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyWed Nov 20, 2019 1:43 pm by Admin

» NHỮNG NHÂN TỐ CẦN CÓ CỦA BARTENDER CHUYÊN NGHIỆP.
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyWed Nov 20, 2019 1:20 pm by thaithanhbinh

» Mocktail & sinh tố cho ngày nắng nóng
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyThu Jan 26, 2017 9:22 pm by thuyphuong92

» Cocktail được làm từ vodka đơn giản
VIẾT VỀ CÀPHÊ EmptyThu Jan 26, 2017 9:15 pm by thuyphuong92

NHỮNG NHÂN TỐ CẦN CÓ CỦA BARTENDER CHUYÊN NGHIỆP.

Wed Nov 20, 2019 1:20 pm by thaithanhbinh

Thú vị, đầy màu sắc và thỏa sức sáng tạo – …


Comments: 0

Bartender Biểu Diễn ( Bartender Flair )

Sun Mar 13, 2016 4:37 pm by dandy90

Cùng giao lưu nhé !



Comments: 0

Xin công thức các thức uống từ Sữa

Thu Dec 05, 2013 4:48 pm by triking

Chào mọi người,
Cho mình hỏi các bạn có biết các …

Comments: 0

Bartender: Những điều nên và không nên

Sat Apr 06, 2013 9:47 am by thaithanhbinh

Bartender (người pha chế cocktail) là linh hồn của quầy …


Comments: 0

Tại sao cocktail này có tên B52 ? Có cocktail nào tên " Phá đời trinh nữ !" ?

Thu May 19, 2011 9:54 am by thaithanhbinh

CÔNG THỨC VÀ NGUỒN GỐC LỊCH SỬ TÊN GỌI COCKTAIKS PHỔ …


Comments: 0

GIÁO TRÌNH PHA CHẾ COCKTAILS PHẦN II

Thu May 19, 2011 9:26 am by thaithanhbinh



Comments: 0

Bảo quản hoa quả, trái cây đúng cách.

Thu Apr 28, 2011 8:29 am by thaithanhbinh

Cách thức bảo quản hoa quả phụ thuộc vào các đặc …

Comments: 0

Trả lời câu hỏi về Bénedictine

Wed Apr 27, 2011 10:04 am by thaithanhbinh

Trong buổi học về Liqueur hôm qua, tất cả các bạn đã …

Comments: 0

Câu hỏi ôn tập LÝ THUYẾT - Lớp tháng 03 - 2011 (new)!

Fri Apr 22, 2011 9:38 am by thaithanhbinh

Câu hỏi ôn tập thi Lý thuyết

Lớp pha chế tháng 03 …


Comments: 1

Câu hỏi và đáp án!

Fri Apr 22, 2011 9:43 am by thaithanhbinh

[size=18]

Câu hỏi 1: Cho biết nước sản xuất, nguồn gốc của …


Comments: 0

CÔNG THỨC COCKTAILS PHỔ BIẾN

Wed Mar 30, 2011 2:00 pm by Admin

[You must be registered and logged in to see this link.]

Comments: 1


VIẾT VỀ CÀPHÊ

2 posters

Go down

VIẾT VỀ CÀPHÊ Empty VIẾT VỀ CÀPHÊ

Bài gửi by thaithanhbinh Mon Apr 25, 2011 2:18 pm

Ngày nay ở khắp nơi trên thế giới nhất là giới trẻ tuổi, người ta có khuynh hướng uống càphê nhiều hơn uống trà nhưng sách báo viết về càphê, 'nghệ thuật' uống cà phê, hãy còn rất ít so với sách viết 'nghệ thuật uống trà'. Ở các nước Á Châu như Nhật và Trung Quốc sách báo về uống trà có thể lên đến hằng trăm. Ngay ở tiệm sách nhỏ của Chùa Nan Tien (Nam Thiên) tại Wollongong - khoảng 70 cây số về phía Nam của thành phố Sydney - du khách cũng có thể thấy ở các giá sách bày bán trên dưới 10 quyển sách khác nhau nói về trà. Thậm chí còn có một hai dĩa CD-Rom dùng để quảng bá các loại trà và nghệ thuật uống trà. Trong tiếng Việt những truyện đề cập đến thú uống trà cũng không ít, chẳng hạn như bài viết của nhà văn tiền chiến Nguyễn Tuân, truyện 'Những chiếc ấm đất' trong quyển 'Vang Bóng Một Thời'. Truyện kể một người nhà giàu thường sai người giúp việc đi múc nước giếng ở một cái chùa cách nhà cả mấy cây số để dành nấu nước uống trà. Đến lúc ông ấy lỡ vận nghèo sa sút phải đi ăn xin - một ngày nọ vào chùa xin cơm.
Lúc ấy sư ông đang dùng trà nên tiện mời người ăn mày cùng dùng trà. Người ăn mày khép nép ngồi xuống đón tách trà do sư ông cho. Nhấp xong một hớp nước trà, ngẫm nghĩ giây lâu người ăn mày nói với sư ông rằng: 'Bẩm Thầy con nghĩ trong ấm trà có vỏ trấu'. Sư ông kêu tiểu đồng rót hết trà trong chiếc ấm đất ra xem thì thấy quả nhiên có một vỏ trấu lẫn lộn trong xác trà. Cũng có một quyển sách Việt nào đó viết rằng người xưa thường thu nhặt những giọt sương đọng trên lá sen trong hồ để dùng làm nước đun pha trà. Thật là kiểu!! Trong khi đó sách về càphê, nhất là bằng tiếng Việt gần như không có gì hết. Tuy vậy, càphê đã len lỏi chút ít vào âm nhạc Việt qua bản nhạc trứ danh 'Cô hàng Càphê' của nhạc sĩ Canh Thân. (Chắc có lẽ cùng thời với bản nhạc Frank Sinatra cho lăng xê vào năm 1946 mang tên 'The Coffee Song').

Sở dỉ có hiện tượng khác nhau trong việc ca tụng giữa trà và càphê là vì, theo nhiều giả thuyết, trà được 'phát minh' bởi các nhà Sư ở Trung Quốc rất lâu đời và dính liền với việc thiền định của các bậc tu hành. Truyền bá qua nhân gian trà là thứ giải lao chính của người Đông Phương qua hàng chục thế kỉ. Khi chủ khách gặp nhau trong một chuyến viếng thăm xã giao, chủ thường mang trà ra mời khách, rồi thói quen đó đã trở thành phương thức xã giao của hầu hết các dân tộc trên thế giới. Trong khi đó càphê chỉ mới được tìm ra trên dưới 10 thế kỷ thôi - và chỉ được giới thiệu qua Âu Châu vào khoảng thế kỷ 16. Sau đó Càphê mới chính thức đến Á Châu theo với các đoàn quân Âu Châu đi xâm chiếm tìm thuộc địa vào vài thế kỉ trước. Theo như cụ
Vương Hồng Sển, trong khi người Đông Phương ngày trước giải lao bằng 'trà nóng'
thì người Tây Phương lại giải lao chính bằng những loại nước 'lạnh', như các
loại nước ngọt, nước trái cây, bia, v.v..

Trà và càphê có điểm thật giống nhau - đó là rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới dùng các từ để chỉ trà và càphê đều có lối phát âm giông giống nhau, giống như các thứ từ như BA và MÁ.
Một từ nữa cũng có tính cách 'phổ cập' trong phát âm là BIA. Nghĩa là khi ta ở Đức hay ở InĐô, ở Pháp hay ở Mỹ, ở Taiwan, ở Nhật, . . . nếu ta thèm Càphê, Trà hay Bia ta cứ việc ra dấu muốn uống và cứ nói đại tiếng Việt Càphê, càphê, càphê hay trà, trà, trà, hoặc bia, bia, bia,. . . chắc chắn sẽ có người hiểu được 'thương hại' đem những thứ đó ra cho ta uống giải khát cho qua cơn thèm thuồng hay cơn 'ghiền'. Càphê được phiên âm từ 'tiếng Tây' café, tiếng Anh gọi là coffee, tiếng Đức Kaffee, tiếng Ý caffè - tất cả có lẽ bắt nguồn từ tiếng Thổ Nhị Kì là kaveh (v đọc gần như f) hoặc tiếng Á-rập là kawah, hay gọi trại đi tên xứ tìm ra càphê đầu tiên là Kaffa thuộc xứ Abyssinia (tức Ethiopia ngày nay).

Ngày trước, ở các nước thuộc khối Thịnh Vượng Chung của Vương Quốc Anh như Anh quốc, Úc, Hongkong và Tân Tây Lan, v.v. , người ta thường có thói quen uống trà - thường loại trà nâu như Lipton - pha với sữa tươi. Sữa dùng để làm dịu bớt vị chát của trà. Tại các công sở hay các công ty lớn khoảng 10giờ sáng và 3 giờ trưa có một phụ nữ pha trà (tea lady) với xe đẩy đi đến tận các bàn giấy làm việc rót và hầu trà cho các các xếp và nhân viên. Uống trà buổi sáng (Morning tea) và trà buổi chiều (afternoon tea) thường thường được kèm theo một vài mẫu bánh bít-qui cho thấm giọng. Tại gia đình vào những ngày cuối tuần, người ta vẫn giữ thói quen uống morning tea và afternoon tea, nhưng trịnh trọng và ngon hơn ở sở làm nhiều. Lí do giản đơn là các bà nội trợ có thì giờ hầu trà cho gia đình. Uống trà tại nhà hay ở tại các quán trà dưới phố ở mức trịnh trọng 'cao cấp' được gọi là Devonshire tea. Đó là uống trà với sữa tươi (và đường hay không tùy người) kèm theo một loại bánh mì ngọt (có nhiều bột nổi) phết bơ và mứt gọi là scone. Bây giờ người ta thỉnh thoảng vẫn tìm thấy Devonshire tea ở các quán trà và càphê tại các thành phố nhỏ do người Úc chính cống làm chủ. Ở Sydney tại vài shopping centre như Westfield cũng có những quán trà, càphê vẫn bán Devonshire tea. Nhưng bây giờ theo mốt thời đại họ còn liệt kê thêm 'Devonshire coffee' trên bản thực đơn nữa. Trước 1975 người ta có thấy bán trà
chế thêm sữa theo kiểu Ăng Lê tại Đà Lạt ở một hai 'tiệm nước' của người Hoa khu
gần chợ. Có thể mấy chủ tiệm người Hoa này đã từng ở Hongkong một thời gian hấp
thụ được phong cách uống trà của người Anh tại đó rồi du nhập sang Đà Lạt chăng.

Morning tea và afternoon tea với các tea-lady tại các công sở ở Úc và Tân Tây Lan dần dần biến mất vào khoảng giữa thập niên 80. Đó là lúc các máy tự động pha trà và càphê với sữa bột - thường gọi là Café Bar - được tung ra thị trường. Thịnh hành được chừng 10 năm, các máy café-bar pha chế càphê và trà tại chỗ này bị giời mộ điệu trà và càphê tẩy chay nhanh chóng khi phong trào uống càphê 'thứ thiệt' khắp thế giới rầm rộ lên và lên nữa, lên hoài vào đầu thập kỉ 90. Việc tẩy chay các thứ máy pha càphê và trà tại chỗ cũng là điều bắt buộc phải xảy ra với lý do các thứ càphê, trà pha sữa bột và đường này uống vào thường đâm ra 'nóng nảy' bởi có lẽ các pha chất bột này có quá nhiều chất hoá học, và nhất là mùi vị quá xa lìa với các tách trà và càphê 'thứ thiệt'. Tuy nhiên ngày nay các máy pha trà và càphê này vẫn còn được trọng dụng tại các cơ xưởng, xí nghiệp.

Nước Mỹ xuất khẩu nhiều nhất những gì liên quan đến máy điện toán và nhưng lại nhập khẩu càphê nhiều nhất. Mỗi năm nước Mỹ nhập khẩu khoảng 4 triệu tấn càphê hạt xanh trị giá chừng 3.5 tỉ đôla Mỹ, và tính bình quân mỗi người Mỹ tiêu thụ cở 5kg cà phê mỗi năm. Mỗi ngày trên thế giới người ta tiêu thụ khoảng 2.5 tỉ tách càphê mà người Mỹ đã uống đến 1/5 tức là 500 triệu tách mỗi ngày. Phẩm chất và mùi vị càphê người ta uống ở mỗi nước thường khác biệt với nhau và thông thường người nước nào cũng cho càphê hay bia của họ là ngon hơn cả. Người Nhật uống càphê khác với người InĐô, càphê người Ý uống khác với càphê người Thổ Nhị Kì, người LiBăng, và của người Mỹ chắc chắn khác với của người Úc. Lí do chính của sự khác biệt này là việc pha trộn các loại hạt càphê khác nhau theo các tỉ lệ, và cách pha càphê, khác biệt sẽ được đề cập đến ở phía sau. Ở miền Nam Việt Nam khoảng cuối thập niên 1950 càphê cũng còn chịu nhiều ảnh hưởng cách uống càphê của người Pháp. Có nhiều tiệm càphê nhỏ trong thành phố Sàigòn pha càphê rất đậm đà thơm ngon. Ngay cả mấy 'tiệm nước' của người Hoa 'phé nại' tức càphê sữa, hay càphê đá họ làm uống cũng được được. Có tiệm bỏ vào tách cà phê sữa hay đen nóng một muỗng bơ Bretelle làm tách càphê trở nên thơm tho mùi béo. Có người nhúng bánh dầu chá quảy vào cà phê sữa để ăn, giống như người Pháp thường chấm bánh mì croissant vào cà phê vậy.

Từ sau 75 cho đến giữa thập kỉ 90, càphê Việt Nam kiểu 'cái nồi ngồi trên cái cốc' bị
pha trộn với bắp rang đen nên mùi vị gần như bị mất mát hết. (Nhưng cũng đừng mừng rằng Việtnam đã phát minh ra lối dùng bắp rang để thay thế càphê. Thật ra
vào khoảng đầu thế kỉ 18, bắp rang và nhiều thứ hạt hay đậu khác như hạt lúa mì
(wheat), hạt lúa mạch (barley), và rể cây lá diếp (chicory) đã được người thường
dân dùng thay càphê tại nước Phổ (tiền thân của nước Đức) khi vua Frederick đặt
ra luật buộc giấy "hành nghề" chế biến càphê chỉ dành riêng cấp cho giới quý tộc
mà thôi. Lối dùng rể cây lá diếp rang đen để pha hay thay thế càphê vẫn còn được
thông dụng tại một vài nước ở Âu Châu). Gần đây Việt Kiều nước ngoài gửi về cho
bà con họ hàng bên Việt Nam các máy làm càphê espresso và cappuccino nên ở các
tỉnh miền Hậu Giang cũng có tiệm bán càphê espresso như ở các nước tiền tiến hiện nay. Khách sạn nổi của Úc một thời cặp bến ở sông Sàigòn có lẽ là nơi đầu tiên đã giới thiệu tách càfê cappuccino vào Việt Nam. Sự thịnh hành của càphê trở lại tại Việt Nam có lẽ đi theo với cái mốt của thời đại trên toàn cầu (bắt chước người Mỹ!!) và cũng do ở sự khôi phục của ngành trồng trọt càphê và xuất khẩu càphê của Việt Nam. Theo tài liệu gần đây Việt Nam trong năm 1999 đã xuất khẩu 400 ngàn tấn càphê ra nước ngoài, đứng hàng thứ 8 trong các quốc gia xuất khẩu càphê trên thế giới (nước sản xuất nhiều càphê nhất là Ba-Tây (Brazil) quê hương của cầu thủ vô địch bóng đá Pélé), và trong năm 2000 số lượng xuất khẩu có thể tăng lên gấp đôi tức là cở 800-900 ngàn tấn. Càphê thường chỉ thích hợp với khí hậu nhiệt đới và cao nguyên nên đồn điền trồng trọt càphê tại Việt Nam tập
trung ở Lâm Đồng, Pleiku và nhất là ở Buôn-Mê-Thuột. Đặc biệt tại Việt Nam còn có thứ càphê gọi là 'Càphê cứt chồn' rất đắt tiền. Hạt càphê này được thu lượm từ . . . cứt của các con chồn trước đó đã ăn trái càphê. Tất nhiên trong một bao càphê người ta chỉ pha trộn vào đó một số ít các hạt càphê quý này mà thôi.

Cây càphê thuộc giống Jasmine (tức cây bông lài hay hoa nhài) cao chừng 3-12 thước. Thời gian từ lúc trồng cây cho đến khi có trái từ 2 đến 5 năm. Thường người ta hay tỉa cây càphê cho cây không được cao quá 3-4 thước để tiện việc hái trái. Trái càphê lúc chín thường màu xanh vàng cở trái dâu tây nên được gọi là trái dâu càphê. Mỗi trái có hai hột càphê ở bên trong, và hột càphê mới chính là cội nguồn của tách càphê thơm ngon mà ta uống hằng ngày, nhất là vào lúc ăn điểm tâm buổi sáng. Hột càphê có màu xanh ngã vàng lúc chưa được rang hay nướng. Càphê xuất hiện từ bao giờ vẫn là một bí ẩn chưa được các nhà nghiên cứu đồng ý với nhau. Nhưng địa điểm khám phá ra càphê chắc chắn là vùng Trung Đông. Có rất nhiều truyền thuyết về việc khám phá ra càphê. Một truyền thuyết thịnh hành nhất nói rằng ngày xưa ở xứ Abyssinia (bây giờ là Ethiopia) nằm ở phiá Đông Bắc Châu Phi có một anh chàng chăn dê tên Kaldi. Vào một ngày nọ Kaldi chợt để ý mấy con dê sau khi ăn vào một vài trái dâu xanh vàng đâm ra nhảy nhót tưng bừng và kêu 'be-he' lung tung. Kaldi bắt chước ăn dâu đó và tự nhiên thấy trong người tỉnh táo và sảng khoái lạ thường. Từ đó anh ta có thói quen hái dâu đó ăn mỗi khi đi chăn dê. Một vài thầy tu ở một tu viện gần đó
biết được chuyện này và chế biến thêm một chút nữa bằng cách đun trái dâu với nước nóng để uống vào mỗi buổi tối, và càng ngày càng dùng nhiều nước dâu này vì
họ thấy dễ tỉnh ngủ, giúp họ thức đêm lo chuyện cầu nguyện và kinh kệ. Một truyền thuyết khác kể rằng cũng tại xứ Kaffa thuộc Abyssinia ngày xưa nữ hoàng Sheba (đọc theo tiếng Pháp là Saba - như trong phim Vua Solomon và Nữ hoàng Saba do Yul Brynner và Gina Lolobrigida thủ vai chính) đã khám phá ra trái dâu càphê và đã đem sang nước Do Thái gần đó để tặng người yêu là vua Solomon để ăn cho được thêm sáng suốt.

Dần dà về sau người Trung Đông mới nghĩ ra cách rang và nghiền nát hạt càphê trước khi đun và uống nóng pha với mật ong. Càphê được hâm mộ nhanh chóng ở Trung Đông có lẽ do ở việc cấm đoán uống rượu của đạo Hồi, vì thật ra chỉ có một thứ giải lao khác rượu và gây sảng khoái trong lúc và sau khi uống là càphê mà thôi. Cũng may mắn cho càphê trong giai đoạn phát triển ban đầu là lúc đó đế quốc Ottoman (tiền thân của nước Thổ Nhị Kì bây giờ) đang rất hùng mạnh và bành trướng thuộc địa và ảnh hưởng khắp vùng Trung Đông và Nam Âu Châu. Chính ra ngày nay người Thổ Nhị Kì và người Á Rập nói chung (nhất là người LiBăng) vẫn giữ ít nhiều lối pha nấu càphê ngày trước. Họ đun sôi "bột cà phê" trong một cái ấm không nấp bằng đồng thau hay nhôm và giữ cặn càphê ở phía dưới ấm. Y như người ta thường thấy trong các phim cao bồi kiểu John Wayne uống càphê giữa đêm trên núi đồi có nhiều tảng đá lớn. Càphê của họ rất đậm đặc và hơi đắng, được rót ra trong những chung nhỏ như người Á châu thường dùng để uống trà. Uống càphê xong họ ưa uống thêm một li nước lạnh để tráng miệng. Uống càphê kiểu này cũng rất phổ thông đối với người Hi Lạp, bởi lí do dễ hiểu là Hi Lạp cũng đã từng bị đế quốc Ottoman đô hộ trên 400 năm. Những ai muốn tìm thưởng thức hương vị càphê đậm đặc loại này có thể đến các khu vực đông người Trung Đông sẽ được thoả mãn và ra về lòng thơ thới hân hoan. (Ở Sydney, các khu vực như Auburn, Lakemba hoặc Arncliffe đều có những tiệm người Trung Đông bán càphê loại này). Sự bành trướng ảnh hưởng của đế quốc Ottoman đã đem càphê qua mạn Âu Châu từ khoảng thế kỷ 15-16. Sang đến Ý, Áo, Pháp rồi Anh Quốc càphê đã được chế biến qua nhiều năm tháng thành một thức uống độc nhất vô nhị ngang hàng hoặc trên cả rượu bia. Nhất là ở khía cạnh mậu dịch quốc tế, bởi càphê thường được
trồng trọt và sản xuất ở các nước nhiệt đới, để rồi xuất khẩu mạnh mẽ sang các nước lạnh thuộc vùng ôn đới. Trong khi đó bia thường là sản phẩm địa phương, nước nào cũng có bia ngon của nước đó - chỉ trừ một vài ngoại lệ mà thôi, như Heineken của Hoà Lan, Budweiser của Mỹ, San Miguel của Phi Luật Tân, và Kirin của Nhật.

Thế nhưng, trước khi càphê trở thành thức uống hàng đầu của nhân loại và càphê hạt thành một mặt hàng trên thị trường thế giới như dầu hoả, thép, gạo, . . .tiến trình phát triển của càphê không được suông sẻ và êm đẹp như những thứ giải lao khác như trà, bia và ngay cả . . . Coca Cola (!) và tiến trình đó đã từng liên hệ mật thiết đến đấu tranh và . . . cách mạng!!

Trong chừng 5-10 thế kỷ đầu tiên sau khi càphê được khám phá, người Á Rập 'dấu nghề' trồng trọt và chế biến càphê rất kĩ. Người Âu châu sang trung đông làm ăn buôn bán không được bén mảng đến các nơi trồng trọt càphê, và hạt càphê chỉ được xuất khẩu sau khi đun nóng hoặc rang lên để làm chết đi cái mầm gieo giống ở đất khách. Vào thế kỉ thứ 16, các tiệm càphê bắt đầu mọc lên như nấm tại Trung Đông - trung tâm thánh địa của Hồi giáo, và dân ghiền càphê thường tụ tập ở các tiệm này để bàn chuyện thời sự cũng như những chuyện thế thái nhân tình. Điều này đã làm cho nhà cầm quyền địa phương đâm ra khó chịu (vì những giáo đường không được đông đúc bằng các tiệm càphê) và nghi kị việc dân uống càphê có thể tụ tập làm chính trị, để rồi họ ra lệnh đóng cửa các tiệm càphê đó. Mặc dù có lệnh cấm đoán, dân hâm mộ càphê vẫn lén lút tụ tập uống càphê lậu sau nhà để rồi ít lâu sau người ta phải cho mở cửa tiệm càphê trở lại. Được phát triển sang Âu Châu theo với sự bành trướng của đế quốc Ottoman, càphê lại một lần nữa bị sự nghi ngờ của Vatican và giới lãnh đạo Cơ Đốc giáo.
Tục truyền rằng trước khi các tiệm càphê được mở tại Ý rất lâu, một số tu sĩ thuộc hàng giám mục và tổng giám mục đã vào Vatican gặp giáo hoàng Clement VIII (1535-1605) xin giáo hoàng cấm chỉ giáo dân không được uống càphê viện lí do rằng càphê là sản phẩm của quỉ sứ Satan, uống vào tức là bán linh hồn cho quỉ. Trước khi thực hiện quyết định không bao giờ sai của mình, Giáo hoàng tìm uống thử một tách càphê và Người thấy mùi vị càphê rất 'đúng điệu' và từ đó lí luận rằng với mùi vị thơm tho kích thích nhẹ nhàng như vậy càphê chắc chắn không phải là 'phó sản' của quỉ, và giáo hoàng đã đi ngược với yêu cầu của các linh mục đó chính thức cho phép người Công giáo được uống càphê như ai. Lan tràn sang Anh quốc các tiệm càphê ở thế kỉ 17 cũng là nơi tụ họp của các chủ thương thuyền hay các thương gia đến đó để nghe ngóng tin tức chừng nào tàu bè chở hàng của mình sẽ cặp bến, và cũng để buôn bán các chính sách bảo hiểm. Hãng bảo hiểm lớn nhất nhì thế giới Lloyd của Anh quốc đã xuất hiện cùng một lượt với những tiệm càphê trên toàn cõi nước Anh vào thời đó. Cũng vào thời này người Anh 'phát minh' ra từ TIP tức là tiền thưởng cho hầu bàn, hầu khách sạn, mà tiếng Việt thường gọi là tiền 'Boa' hay 'Bo', bắt nguồn từ 'tiếng Tây' là Pourboire. TIP được viết tắt từ 'To Insure Promptness' (T.I.P.) tức là 'Để Bảo Đảm cho Việc Phục Vụ Nhanh Chóng'. Thời đó các tiệm càphê có treo ngay ở cửa vào một cái hộp bằng đồng trên có ghi 'To Insure Promptness' để 'ẩm khách' nào muốn được phục vụ nhanh chóng thảy vào đó một vài đồng xu nhỏ. 'To Insure Promptness' sau đó được gọi tắt là Tip, và trở thành từ thông dụng trong Anh ngữ để chỉ tiền 'Boa'.

Càphê đã liên hệ mật thiết với cách mạng ở chỗ trước khi dân Paris kéo nhau đi phá ngục Bastille vào năm 1789, họ đã tụ tập làm một 'đêm không ngủ' tại tiệm càphê Foy. Ở Mỹ cũng vậy, dân thành phố Boston đã tập họp tại một tiệm càphê vào năm 1773 để thảo luận kế hoạch thành lập Boston Tea Party (Hội Trà Boston) dẫn đến cách mạng Mỹ về sau. Sở dỉ người Mỹ ngày nay uống càphê nhiều hơn uống trà là vì vào những năm trước cách mạng Vương Quốc Anh đánh thuế rất nặng trên nhiều món hàng tại thuộc địa Mỹ - trong đó có trà. Dân thuộc địa ở Mỹ chống đối việc này rất mãnh liệt và vào năm 1773 một số người dân Boston lén lên một số tàu Anh đang đậu ở cảng khiêng các thùng và bao bố trà lớn thảy hết xuống biển. Từ đó họ tẩy chay trà và tìm đến càphê. Càphê tự nhiên trở thành thức uống của người Mỹ 'yêu nước', và các thuộc địa của Pháp và Hoà Lan ở Trung Mỹ và vùng Caribbean sẵn sàng cung cấp càphê cho Mỹ, một thị trường có tiềm năng tiêu thụ lớn và cũng là một thuộc địa lớn của Anh quốc đang trên đà vùng lên.

Có tất cả độ 70 các thứ giống cây càphê, nhưng có 2 giống càphê chính là càphê ARABICA và càphê ROBUSTA và càphê chúng ta uống thường pha trộn 2 giống càphê chính đó với nhau. Càphê Arabica chính là càphê nguyên thủy xuất xứ từ Ethiopia, còn càphê Robusta chỉ mới được tìm ra vào thế kỉ 19 rồi lan tràn sang thị trường quốc tế vào sau thế chiến thứ 2. Khoảng 3 phần 4 càphê sản xuất trên thế giới thuộc loại Arabica, còn Robusta được trồng trọt nhiều nhất tại In-đô-nê-xia rồi đến BaTây (Brazil). (Việt Nam có trồng cả Arabica lẫn Robusta).
Robusta dễ trồng hơn nhưng có mùi vị đắng hơn Arabica. Tuy nhiên Arabica thơm ngon hơn và ít chất caffeine (càphê-ín) hơn Robusta. Chất caffeine là một loại chất kiềm thiên nhiên có trong một số các loại hạt và lá, điển hình là càphê, trà và hạt cacao (cocoa) dùng làm chocolate (sô-cô-la). Chất caffeine là một chất kích thích quan trọng cho hệ thần kinh - nó có tác dụng làm giảm mệt, giúp tỉnh táo và cũng mang tính chất lợi tiểu (diuretic). Chất caffeine được pha chế vào nhiều dược phẩm thông dụng nhưng dùng nhiều cũng có hại là gây mất ngủ, và có thể tim đập nhanh hơn mà không cần đối tượng tình yêu trước mặt. Trong tiếng Việt chất caffeine chính là 'tác giả' nguyên thủy của loại trà mang tên theo kiểu nói lái bình dân là trà "Thái Đức". Trong vài chục năm gần đây có phong trào pha chế càphê gột tẩy đi chất caffeine này ngay khi còn trong trái dâu càphê. Càphê đó gọi là Decaffeinated coffee tức là càphê đã khử chất caffeine, thường gọi tắt là decaf. Việc khử chất càphê-ín cũng đem lại cho các nhà nghiên cứu nhiều công việc làm và đã có đến hàng trăm bằng phát minh sáng chế đã được đăng kí 'pa-tăng' (patent) khắp nơi trên thế giới về việc khử chất caffeine trong càphê. Cũng có loại cây càphê được ươm ghép không có chất càphê-ín nhưng bao nhiêu mùi vị thơm tho của càphê đều bị biến mất. Tuy nhiên gần đây, vào năm 1994 một hãng kĩ sư sinh hoá tại California đã đăng kí một tiến trình gây giống cây càphê 'sans caffeine' mà vẫn giữ được mùi vị độc đáo của càphê arabica. Hiện loại cây này đang được trồng thí nghiệm tại Hạ Uy Di và chắc cũng cở năm 2002
trở đi người ta mới có thể uống thử loại càphê phi càphê-ín này. Ở một mặt khác việc xử dụng chất càphê-ín có vẻ càng ngày càng được hâm mộ. Nhiều loại nước ngọt thịnh hành ngày nay đều có chứa chất càphê-ín này. Điển hình là Coca-Cola, Dr Pepper (hình như Dr Pepper chỉ có đường và chất càphê-ín mà thôi), và ngay cả một vài thứ li-mô-nát như Mountain Dew và Mello Yello. Rất nhiều thứ nước ngọt mới ra đời sau này mang danh là nước ngọt mang đến 'năng lượng' hay bồi dưỡng 'năng lực' cho người uống thật ra chỉ là nước đường hoà với chất càphê-ín mà thôi.

Sự gia tăng nhảy vọt trong việc tiêu thụ càphê trong vòng 20 năm qua có thể được giải thích bằng nhiều lí do và nguyên nhân như sau.
Thứ nhất trong một hai thập kỉ vừa qua văn hoá Mỹ và lối sống của người Mỹ - tuy thường thiên nhiều về vật chất - đã trở thành một loại văn hoá tràn ngập và chế ngự toàn cầu. Cũng giống như sự tràn ngập văn hoá của đế quốc La Mã ngày xưa - hễ người Mỹ sinh sống làm sao và ăn uống những thứ gì thì người nước khác hình như phải cóp cho được - dù tàng ẩn sâu xa trong tiềm thức - thì mới tỏ được rằng ta đây cũng tiến bộ như Mỹ chứ chẳng phải vừa. Điển hình là computer, phim ảnh Hollywood và MacDonald's. Ở đâu người ta cũng phải dùng những máy điện toán mà tiêu chuẩn được phát minh hay xếp đặt từ Mỹ. Những phát minh về internet và cách mạng điện toán hiện đang tiếp diễn dài dài cũng đã xuất phát từ Mỹ. Gần như trong bất cứ thành phố lớn nào trên thế giới cũng có MacDonald. Giống như câu nói ngày xưa 'Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc ANH', ngày nay người ta có thể nói 'Mặt trời không bao giờ lặn trước tiệm ăn MacDonald!!'. Phim ảnh cũng vậy, hình như không có Tivi hay rạp hát nào trên thế giới (có lẽ trừ một vài rạp hát chiếu phim Ấn Độ bắt chước phim Mỹ!) mà không có trình chiếu phim ảnh sản xuất từ Mỹ. Nói như kiểu trên, 'mặt trời sẽ không bao giờ mọc và đêm sẽ không bao giờ tàn trên thế giới vì loài người hãy còn mãi mê chưa xem xong phim của Hollywood'. Mỹ mới thật sự là đỉnh cao của trí tuệ loài người, và ở đó người ta thường uống càphê để trí tuệ luôn luôn được cao thêm lên!! Lí do thứ hai là lí do 'stress'. Sự biến chuyển của kinh tế và kĩ thuật trên toàn cầu trong 1-2 thập kỉ vừa qua đã gây ra một dạng thức nhân dụng rất rõ nét: nhân công bị sa thải nhiều và những người còn giữ được việc làm phải làm việc nhiều giờ hơn và căng thẳng hơn. Căng thẳng và bận rộn thường xuyên trong công việc đã đưa họ tìm đến tách càphê, mà đương nhiên họ sẽ đòi hỏi càphê càng ngày càng đậm đặc và thơm ngon hơn. Lí do thứ ba bắt nguồn ở sự phát minh ra máy pha càphê espresso. Máy pha càphê được 'phát minh' trong dạng thô thiển vào giữa thế kỉ 19 và được người Ý phát triển tiếp rồi hoàn hảo nó trong suốt thế kỉ 20. Espresso trong tiếng Ý mang í nghĩa như Express trong tiếng Anh, nghĩa là 'làm thật nhanh' - tức là cho nước sôi tiến nhanh tiến mạnh xuống một lớp bột càphê nén rồi qua màn lọc xuống tách cà phê đã hâm nóng. Pha càphê như vậy mới thật đúng điệu và hơn tất cả những phương thức pha càphê có từ trước đến giờ kể cả kiểu 'cái nồi ngồi trên cái cốc' do người Pháp giới thiệu sang Việt Nam, và đặc biệt hơn xa càphê hoà tan hay càphê 'uống liền' (instant coffee) đã được phát minh trong thập niên 1950. (Càphê hoà tan được biến chế bằng cách nấu trước một nồi càphê đậm đặc - rồi cất nó lên như cất rượu, xong rồi hấp hoặc đông lạnh lại dung dịch đậm đặc càphê đó - làm cho dung dịch khô lại thành những bột càphê sẵn sàng hoà tan lại với nước nóng.) Ngày nay tất cả các tiệm càphê đàng hoàng đều phải thiết bị máy pha càphê espresso. Lí do thứ tư do ở phong trào di cư rầm rộ do ở chiến tranh và biến động chính trị ở nhiều nơi trên thế giới xảy ra trong 20 năm qua, mà những nơi đó (trừ Trung Quốc trong vụ Thiên An Môn) người di dân đã từng uống càphê nhiều hơn là uống trà. Sang đến quốc gia mới và định cư rồi, người di dân phải tìm ra công ăn chuyện làm và một trong những việc họ thích làm là tự mở cho mình một thương vụ nhỏ để tự mình làm chủ lấy mình. Tiệm càphê là một trong những thương vụ họ có thể nghĩ tới. Đặc biệt bởi di dân từ các nước Âu Châu rồi Á Châu và Trung Mỹ chỉ xảy ra ở Úc trong vòng 50 năm qua, so với di dân từ các nước không nói tiếng Anh sang Mỹ từ nhiều thế kỉ trước, nhiều nhà báo
cũng như người viết đều đồng í với nhau rằng càphê ở Úc đúng điệu hơn và đi trước càphê ở Mỹ khoảng 30 năm, mặc dù Mỹ dùng càphê nhiều hơn Úc và lâu năm hơn Úc. Lí do giản đơn là sự gia nhập của di dân và hình thành xã hội mới ở Úc trong 2-3 thập kỉ qua đã đi đôi hay xảy ra cùng lúc với việc phổ cập hoá của 'vấn đề' càphê. Ở Melbourne có khu Carlton, ở Sydney lúc đầu có khu Leichhardt, Paddington và Surry Hills chuyên bán các tách càphê trứ danh của Ý. Bây giờ thì ở Melbourne, hay Sydney hay Brisbane ở đâu và ở đường phố nào của các khu phố chính CBD cũng có các tiệm càphê đúng điệu espresso có bàn ghế bày ra vỉa hè lề đường như ở Âu châu - và bán luôn cả thức ăn trưa của Ý như pasta, bánh mì sandwich kiểu foccacia hay bánh mì Thổ nhị Kì. Những tiệm càphê này rất đông khách vào giờ ăn trưa và tiền sang nhượng một thương vụ như vậy có thể từ $150000 đến $500000 như chơi. Càphê thông thường ở Mỹ thường giống như càphê ở MacDonald dùng chung với sữa UHT để lâu được chưá trong các chung plastic nho nhỏ. Nó là càphê 'chưng lâu' chứ không phải espresso. Tuy vậy Mỹ cũng có một chuỗi mạng tiệm càphê trứ danh là Starbucks (xuất phát từ Seattle vào đầu thập kỉ 1970), hiện đang bành trướng rất mạnh mẽ sang Á châu và Úc. Càphê Starbucks mới thật đúng điệu là càphê espresso nhưng nếu so với một vài tiệm càphê đặc thù của người Ý tại Sydney và Melbourne thì Starbucks cũng chỉ ngang ngữa thôi chứ chưa chắc đã hơn. Nhớ mấy hôm Thế vận hộI Olympics 2000 tại Sydney chính các hiệu Starbucks phải đặt riêng hãng máy bay chở sang Sydney hàng chục tấn càphê Mỹ vì họ sợ du khách từ Mỹ đến chịu không nổi cà phê 'quá đắng' của Úc.
Muốn uống càphê ngon, tách càphê phải được hâm nóng trước khi rót càphê vào đó. Bởi vậy người ta thường thấy các tách được sắp xếp từng chồng ngay phiá trên máy pha espresso, tức là phía trên nồi nước nóng dùng để pha càphê, để hấp thụ được chút ít nhiệt từ nồi nước sôi. Y hệt như ăn phở tại các tiệm phở ngon, người ta thường để bánh phở, thịt vào một bát đã được hâm nóng sẳn rồi mới chan nước dùng vào, trước khi 'trang hoàng' bát phở với hành ngò và rau thơm, v.v.. Không kể đến càphê hoà tan, nguyên tắc chính của việc pha càphê theo kiểu espresso là phải cho một dòng nước sôi dưới sức ép cao chảy xuyên qua một lớp càphê vừa nhuyễn thật nhanh, rồi xuyên qua màn lọc xuống tách càphê. Nếu bột càphê xay ra hãy còn lớn hạt thì sự tiếp xúc giữa nước sôi và càphê sẽ không được trọn vẹn, cà phê sẽ thiếu đi mùi vị thực thụ và không được thơm ngon. Ngược lại nếu xay bột càphê quá nhuyễn, nước sôi sẽ thấm qua càphê lâu hơn, làm hoà tan mọi chất trong bã càphê làm cho tách càphê trở nên đắng và chát mùi khét.
Trước khi càphê espresso được thịnh hành có chừng hai ba loại bình lọc càphê tại nhà. Đó là các loại như - loại 'pít-tông', - loại càphê xuyên qua giấy lọc, - loại của Ý dùng nước sôi bắn xịt ngược lên phía nấp rồi khi nước đổ xuống sẽ xuyên qua một cốc càphê với đáy có những lỗ nhỏ, - loại 'cái nồi ngồi trên cái cốc' (xin viết tắt là CNNTCC) tức càphê phin (filtre - lọc). Loại 'pít-tông' pha càphê chung với nước sôi khi pít tông nằm gần miệng bình. Độ chừng vài ba phút khi càphê đã hoà tan với nước sôi người ta mới từ từ ấn cái pít tông xuống dưới nén chặt càphê vào phía đáy của bình, và nước càphê sẽ thoát qua những lỗ của pít tông trở lại lên phía trên. Càphê này uống cũng tạm được với bí quyết là phải rót càphê ra tách cho hết để tránh tình trạng càphê 'chưng' lâu trong bình.
Càphê xuyên qua giấy lọc uống có lẽ được nhất so với espresso. Càphê CNNTCC cũng
giống như càphê lọc giấy nhưng bị khuyết điểm là càphê này pha riêng cho từng cá
nhân và thường bị nguội lạnh khi càphê đã lọc xong. Tuy vậy nó cũng câu giờ cho
'ẩm khách' có thể ngồi lâu để hàn huyên tâm sự.

Để kết thúc xin tạm liệt kê một vài thứ càphê espresso hiện đang rất thông dụng cho dân ghiền.
caffè espresso: tức là càphê đen, còn gọi là short black. Nước nóng đun trong máy espresso được bơm nhanh qua một lớp càphê đã được nén trong một cái chung bằng thép không rỉ. Phía dưới chung thép là một lớp lưới mỏng dùng để lọc lại xác càphê. Caffè espresso thường được hầu tiếp trong một tách nhỏ. Một biến dạng của espresso gọi là ristretto chứa nhiều càphê hơn espresso. Ở Mỹ người ta thường dùng chanh với espresso bằng cách ma xát múi chanh chung quanh rià của tách trước khi uống. Nghe đâu lính GIs Mỹ mang cái trò chà chanh trên miệng cốc càphê từ Ý về sau Chiến Tranh thứ 2, bởi họ không hiểu mô tê rằng ở Ý trong thời gian chiến tranh ly tách không được rửa sạch nên người ta dùng chanh để chùi miệng cốc!!

* cappuccino:
đây là càphê thông dụng nhất hiện nay trên thế giới. Tên cappuccino xuất phát từ dòng các thầy tu capuchin bởi càphê cappuccino có màu sắc giống như chiếc áo có mũ của dòng tu này. Cappuccino gồm có càphê đậm espresso phía dưới và barista (tức người pha càphê) sẽ thêm vào một lớp sữa bọt dày ở trên. Sữa bọt này tạo nên bằng cách cho tia hơi nước nóng mạnh quậy và đánh bọt trong một bình sữa tươi. Phía trên mặt sữa bọt nóng của tách cappuccino, barista thường rắc rắc vào một tí bột sô-cô-la hay bột quế cho thêm thơm tho.

* caffè mocha
tức là càphê pha lẫn với bột sô-cô-la.

*
flat white tức café au lait:
càphê sữa gọi theo ViệtNam. Đúng điệu sữa phải
nóng, và có thể dùng sữa bọt quậy bởi tia hơi nước nóng như cappuccino nhưng lúc
chế sữa nóng vào tách phải dùng muỗng gạn lọc lại chất bọt sữa phía trên. Dân
ghiền thường kêu strong flat white, tức càphê sữa với nhiều càphê và đậm đặc hơn
bình thường. Một số người Trung Đông họ rất kị thấy việc người Việt thường dùng
sữa đặc có đường để pha càphê sữa. Lí do chỉ là tập quán và bởi có lẽ họ cho
rằng sữa đặc có đường chỉ dùng để làm bánh ngọt mà thôi. (Có lẽ họ sẽ còn khó
chịu hơn nữa khi thấy người Hongkong hiện nay ưa dùng trà pha chung với càphê và
sữa Carnations).

* caffè latte
tức là sữa càphê: càphê espresso rất ít nhưng sữa nóng thì nhiều. Càphê latte rất phổ thông ở Mỹ và không đậm đặc bằng flat white hay cappuccino.

* macchiato tức caffè espresso ít sữa: đây là một biến dạng của espresso, giống y như espresso nhưng cho vào tách vài ba giọt sữa nóng ở phía trên. Có một vài tiệm càphê ở Sydney (khu Surry Hills hay Kings Cross) người barista rất kiểu là trước khi phục vụ khách một tách macchiato, họ dùng rượu cồn đốt cháy một hột càphê đen rồi thảy vào tách. Hạt càphê hãy còn cháy xèo xèo trong khi họ đặt tách càphê lên bàn.

Kiểu hơn nữa người ta có thể uống càphê pha thêm mùi vị khác nữa. Đó là những mùi vị từ những chai si-rô pha chế cho càphê như si-rô quả hạnh (almond), sirô vanille, sirô quế, sirô cam, sôcôla, sirô quả phỉ (hazelnut), v.v.

Hôm nay trời trở lạnh, xin cho tôi một tách cappuccino ! Razz

Nguyên Nguyên
(Sydney)
thaithanhbinh
thaithanhbinh

Tổng số bài gửi : 254
Join date : 21/04/2011
Đến từ : lưng lửng chai cay...

http://thaithanhbinh.blogspot.com

Về Đầu Trang Go down

VIẾT VỀ CÀPHÊ Empty Re: VIẾT VỀ CÀPHÊ

Bài gửi by tuan_mouse Tue May 24, 2011 10:00 pm

em chao anh.
anh viet hay wa!
em muon hoc lam bar lam, nhg em lo vao su pham va hoc xong rui!
gio em muon hoc bar nhg ko biet hoc o dau? giao trinh thi mua o dau?
giup em voi nhe! em cam on anh nhieu!

tuan_mouse

Tổng số bài gửi : 1
Join date : 24/05/2011

Về Đầu Trang Go down

VIẾT VỀ CÀPHÊ Empty Học về Bar, pha chế thức uống.

Bài gửi by thaithanhbinh Wed May 25, 2011 8:19 am

tuan_mouse đã viết:em chao anh.
anh viet hay wa!
em muon hoc lam bar lam, nhg em lo vao su pham va hoc xong rui!
gio em muon hoc bar nhg ko biet hoc o dau? giao trinh thi mua o dau?
giup em voi nhe! em cam on anh nhieu!


Chào Tuấn nhé!
Rất vui khi biết bạn quan tâm và muốn học về Bar,và đã vào forum này!

  • Thứ nhất : Bài viết trên của Nguyễn Nguyên chứ không phải mình đâu ! Mad
  • Thứ hai : Nếu bạn thực sự quan tâm đến việc học về Bar, về pha chế thức uống thì bạn liên lạc với mình hay đăng ký trực tiếp tại "Trung tâm dịch vụ việc làm Phụ nữ Đà nẵng " số 02 Phan Châu Trinh.
  • Thứ ba : Khi bạn đăng ký học tại đây với mức học phí 1 triệu 7 thì bạn được phát giáo trình miễn phí. Razz

Chúc bạn vui! Hy vọng gặp bạn !
Trân trọng!
thaithanhbinh
thaithanhbinh

Tổng số bài gửi : 254
Join date : 21/04/2011
Đến từ : lưng lửng chai cay...

http://thaithanhbinh.blogspot.com

Về Đầu Trang Go down

VIẾT VỀ CÀPHÊ Empty Re: VIẾT VỀ CÀPHÊ

Bài gửi by thaithanhbinh Wed Aug 10, 2011 4:35 pm

Những điều ít được biết về cà phê và trà

VIẾT VỀ CÀPHÊ Cf
Cà phê kích thích những năng lực của não, cà phê tạo sự thuận lợi cho tiêu hóa, .....


Cà phê kích thích những năng lực của não, cà phê tạo sự thuận lợi cho tiêu hóa, dùng quá nhiều trà trong bữa ăn có thể khiến bị thiếu máu, trà tạo sự thuận lợi cho ung thư thực quản... Liệu bạn có thể giải đáp đúng những câu hỏi này?

* Cà phê kích thích những năng lực của não?


- Đúng. Nếu được dùng với liều lượng vừa phải, 2-3 tách mỗi ngày, caffein có trong cà phê kích thích hoạt động của não. Cà phê làm tăng khả năng tập trung chú ý, tạo cảm giác khoan khoái, mạnh mẽ. Dù vậy, ở liều cao, tức là trên 6 tách/ ngày, cà phê làm giảm hoạt động vận động,làm tăng sự lo âu và tính hung hăng.

* Cà phê không có tác dụng dinh dưỡng?


- Sai. Cà phê không đường chỉ cung cấp một lượng calori không đáng kể (khoảng 2 calori/ tách), ngược lại nó chứa một tỷ lệ đáng kể potassium,phosphore, vitamin B, cần thiết cho sự tổng hợp năng lượng, và các hợp chất như polyphénol, có tính kháng oxy hóa.

* Cà phê tạo sự thuận lợi cho tiêu hóa?

- Đúng. Khi làm tăng sự tiết nước bọt, các enzyme tiêu hóa và mật, cà phê giúp sự tiêu hóa dễ dàng hơn (nhất là khi uống vào cuối bữa ăn), và cả sự chuyển vận qua ruột. Dù vậy những người nhạy cảm nên thận trọng,vì sự tiết axít này có thể gây cảm giác nóng rực ở bao tử. Còn cà phê sữa vốn khó tiêu, do sự kết hợp giữa proteine của sữa và vitamin của cà phê.

* Cà phê làm dịu đau đầu?

- Đúng. Càféine làm dịu chứng đau đầu và đau nửa đầu nhờ tính co mạch. Trong bào chế dược phẩm, caféine thường được kết hợp với thuốc giảm đau (aspirine, paracétamol) để làm tăng tác dụng. Nhưng khả năng tương tác với các dược phẩm này cũng có mặt trái: cà phê có thể làm giảm hoặc tăng tác dụng của một số thuốc kháng viêm, thuốc trị trầm cảm và trị hen suyễn.

* Trà tạo sự thuận lợi cho ung thư thực quản?

- Sai. Trà không phải là nguyên do gây ung thư thực quản, mà chính là nhiệt độ nước trà ta uống. Trên 55 độ C, nước trà gây kích thích thực quản, làm tăng nguy cơ ung thư 2 đến 3 lần. Trên thực tế, những người thường xuyên uống trà được tăng mức bảo vệ trước một số ung thư, nhất là ung thư đường tiêu hóa và đường niệu, giảm nguy cơ đến 60%. Nguy cơ mắc các bệnh ung thư miệng, tụy tạng, kết tràng, tiền liệt tuyến, bàng quang (phụ nữ) cũng giảm.

* Dùng quá nhiều trà trong bữa ăn có thể khiến bị thiếu máu?


- Đúng. Sự hấp thụ chất sắt trong thực phẩm có thể thay đổi từ 1đến 20%. Vitamin C kích thích sự hấp thu này, trong khi phytat trong ngũ cốc, xơ, một số proteine và cả flavonoide trong trà gây trở ngại cho sự hấp thu này. Cơ thể ta cũng giữ được ít chất sắt hơn khi dùng ngũ cốc nguyên chất, lòng đỏ trứng, cà phê, trà. Dùng giữa bữa ăn, trà có thể ức chế đến 60% - 70% sự hấp thu sắt từ thức ăn, khiến trữ lượng sắt quáthấp nơi người ăn chay, phụ nữ có thai, trẻ em. Giải pháp cho những người dễ gặp nguy cơ này: uống trà ngoài các bữa ăn.

* Kem đánh răng nên chứa trà?

- Đúng. Năm ngoái, bác sĩ Milton Schiffenbauer (Đại học Pace, New York) chứng minh trà ức chế sự tăng trưởng của vi khuẩn gây sâu răng và đau họng. Theo nhà nghiên cứu này, kem đánh răng chứa trà củng cố sự bảo vệ răng. Bên cạnh đó, Chistine Wu (ĐH Illinois, Chicago) phát hiện khi súc miệng với trà, sự hình thành các mảng bám răng bị chặn lại, và các axít tấn công men răng cũng bị phá hủy.


Được sửa bởi thaithanhbinh ngày Wed Aug 10, 2011 4:41 pm; sửa lần 1.
thaithanhbinh
thaithanhbinh

Tổng số bài gửi : 254
Join date : 21/04/2011
Đến từ : lưng lửng chai cay...

http://thaithanhbinh.blogspot.com

Về Đầu Trang Go down

VIẾT VỀ CÀPHÊ Empty Re: VIẾT VỀ CÀPHÊ

Bài gửi by thaithanhbinh Wed Aug 10, 2011 4:38 pm

Từ" Cà phê" và xuất xứ của cà phê

VIẾT VỀ CÀPHÊ Kaldi


Từ nguyên

Từ "cà phê" trong tiếng Việt có gốc từ chữ café của tiếng Pháp. Giống như các ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, café có gốc từ kahveh của tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và kahveh đến từ qahwa của tiếng Ả Rập.

Sau đây là một vài cách thể hiện của từ cà phê bằng các thứ tiếng của các nước:

VIẾT VỀ CÀPHÊ Cong4 VIẾT VỀ CÀPHÊ Cong5
VIẾT VỀ CÀPHÊ Cong6 VIẾT VỀ CÀPHÊ Cong7
Hình từ Cổng cà phê lớn nhất Việt Nam tại Tuần lễ văn hóa cafe 2007

Trong nhiều ngôn ngữ, café còn dùng để chỉ "quán cà phê".

Xuất xứ
Theo một truyền thuyết đã được ghi lại trên giấy vào năm 1671, một anh chàng chăn dê tên là Kaldi, người xứ Abyssinia. Một hôm anh ta ngồi trên một tảng đá cạnh một sườn núi bỗng nhận ra đàn dê vốn dĩ ngoan ngoãn hiền lành của mình đột nhiên có vẻ sinh động lạ thường. Sau khi đến gần quan sát kỹ hơn, Kaldi thấy những con dê đã đớp những trái màu đo đỏ ở một cái cây gần đó. Anh ta cũng liều lĩnh bứt một vài trái ăn thử và cũng thấy mình hăng hái hẳn lên, tưởng như tràn đầy sinh lực.

Người chăn dê nghĩ rằng mình đã gặp một phép lạ, vội vàng chạy về một tu viện gần đó báo cho vị quản nhiệm. Nhà tu kia sợ rằng đây chính là một thứ trái cấm của quỉ dữ, lập tức vứt những trái cây chín đỏ kia vào lò lửa. Thế nhưng khi những hạt kia bị đốt cháy tỏa ra một mùi thơm lừng, người tu sĩ mới tin rằng đây chính là một món quà của Thượng Ðế nên vội vàng khều ra và gọi những tăng lữ khác đến tiếp tay. Những hạt rang kia được pha trong nước để mọi người cùng được hưởng thiên ân.

Cà phê vốn dĩ mọc hoang trong vùng Abyssinia và Arabia. Trước thế kỷ thứ X, thổ dân thường hái ăn, dùng như một loại thuốc kích thích. Trái cà phê chín được giã ra trộn với mỡ súc vật nặn thành từng cục tròn để dùng làm thực phẩm khi đi đường xa. Về sau cà phê được dùng làm thức uống nhưng cũng khác phương cách ngày nay. Thời đó người ta chỉ ngâm nước những trái cà phê rồi uống, mãi tới thời trung cổ người Ả Rập mới biết tán ra bỏ vào nước sôi.

Thức uống đó chẳng mấy chốc trở nên nổi tiếng và người Ả Rập rất tự hào về phát minh này và giữ bí mật để bảo tồn độc quyền một loại sản phẩm. Những khách hành hương được thưởng thức nước cà phê đã lén lút đem hạt giống về trồng nên chẳng bao lâu khắp khu vực Trung Ðông đều có trồng, và truyền đi mỗi lúc một xa hơn nữa.
VIẾT VỀ CÀPHÊ Coffeehouse3
Vào thế kỷ thứ 13, cà phê đã thành một thức uống truyền thống của người Ả Rập. Những quán cà phê với tên là "qahveh khaneh" hiện diện khắp nơi, từ thôn quê tới thành thị. Những quán đó trở thành những nơi sinh hoạt, với đủ loại giải trí từ âm nhạc đến cờ bạc và các triết gia, chính trị gia, thương gia thường lui tới để tụ tập bàn thảo sinh hoạt xã hội và công việc làm ăn.

Thế nhưng khung cảnh nhộn nhịp của các "hộp đêm" cũng làm cho giới cầm quyền e ngại. Sợ rằng những tay đối lập có thể tụ họp bàn chuyện chống đối nên nhiều lần triều đình đã ra lệnh cấm và đóng cửa các coffee houses này nhưng không thành công. Không những thế, việc cấm đoán lại còn khiến cho việc uống cà phê trở thành thói quen của thường dân vì từ nay một số đông sợ rắc rối nên uống ở nhà, kiểu cách uống cũng được nghi thức hóa.
Những thương gia đi tới những quốc gia Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ nay đem cái thói phong lưu này về bản xứ. Âu châu nay cũng uống cà phê. Kiện hàng mang càphê được ghi nhận lần đầu tại Venice vào năm 1615 do Thổ Nhĩ Kỳ gửi đến. Khi cà phê lan tới Rome, một lần nữa các nhà tu lại kết án đây là một thức uống của ma quỉ (the drink of the devil), và việc tranh chấp gay go đến nỗi Giáo Hoàng Clement VIII phải yêu cầu đem đến một gói cà phê mẫu để chính ông dùng thử. Vị chủ chiên kia chỉ mới uống một lần đã "chịu" ngay và thấy rằng thật ngu xuẩn xiết bao nếu cấm giáo đồ Thiên Chúa không cho họ uống cà phê.


Ðược Giáo Hoàng chấp thuận, số người uống cà phê lập tức gia tăng và chẳng bao lâu quán cà phê đầu tiên ở Âu Châu được khai trương tại Anh Quốc năm 1637 do một doanh gia tên là Jacob (người Do Thái, gốc Thổ Nhĩ Kỳ) mở tại Oxford. Kế đó là một quán cà phê khác ở London và rồi nhiều thành phố khác. Người ta bảo rằng những quán đó rất dễ nhận vì dù còn ở xa xa đã ngửi thấy mùi cà phê thơm nức, tới gần hơn thì bao giờ cũng có một bảng hiệu với một ly cà phê nghi ngút hay hình đầu một vị tiểu vương xứ Trung Ðông

Những quán mở gần trường đại học bao giờ cũng đông nghẹt giáo sư và sinh viên nên được gọi bằng cái mỹ danh "đại học một xu" (penny universities) vì giá của một ly cà phê thuở đó chỉ có một penny và người ta chỉ tốn bấy nhiêu cũng thu thập được rất nhiều kiến thức qua những buổi "thuốc lá dư, cà phê hậu", có khi còn nhiều hơn là miệt mài đọc sách. Chẳng biết những lời tuyên bố đó có đúng hay không nhưng truyền thống đó không phải chỉ nước Anh mà lan qua nhiều quốc gia khác.

VIẾT VỀ CÀPHÊ Coffee
Ðếncuối thế kỷ 17, hầu hết cà phê trên thế giới đều nhập cảng từ các nước Ả Rập. Cũng như ngày nay người ta kiểm soát dầu hỏa, vào thuở đó các nướcTrung Ðông rất chặt chẽ trong việc sản xuất và xuất cảng cà phê, và chỉđược mang hạt ra khỏi xứ sau khi đã rang chín ngõ hầu không ai có thểgây giống để đem trồng nơi xứ khác. Người ngoại quốc cũng bị cấm khôngcho đến những đồn điền cà phê. Thế nhưng dù có nghiêm nhặt đến đâu thìcũng có người vượt qua được.

Sau nhiều lần thất bại, người Hòa Lan là dân tộc đầu tiên lấy giống được loại cây này đem về trồng thử trên đảo Java (khi đó là thuộc địa của họ). Thế là giống cây quí đã truyền sang Âu Châu mặc dù vẫn chỉ có thể trồng trong nhà kiếng.

Năm 1723, một sĩ quan hải quân Pháp trẻ tuổi tên là de Clieu, khi về nghỉ phép tại Paris, đã quyết định đem cây giống này về xứ Martinique là nơi anh ta đang trú đóng. Cây giống được mang về theo chiếc tàu xuôi nam để quay về nhiệm sở. Chuyến đi đó nhiều gian nan, từ việc một gián điệp Hòa Lan toan đổ một loại thuốc độc vào cây non, cho đến việc hải tặc chặn cướp con tàu rồi khi tới gần điểm đến, chiếc thuyền lại gặp bão suýt bị chìm.

Sau cùng de Clieu cũng thành công trong việc mang được cây cà phê trồng một nơi kín đáo, cắt ba thủy thủ, canh gác ngày đêm. Chẳng bao lâu cây đơm bông kết trái và chỉ hơn 50 năm sau tính ra đã có đến 18 triệu cây cà phê trồng trên hòn đảo này. Ngành buôn cà phê nay trở thành một cạnh tranh gay gắt giữa Hòa Lan và Pháp và chính việc tranh chấp giữa hai nước đã đưa đến một biến cố "ngư ông đắc lợi". Trong khi hai nước có những bất đồng không thể giải quyết, họ đã nhờ chính quyền Brazil đứng ra dàn xếp.
VIẾT VỀ CÀPHÊ Coffeehouse1

Cà phê do người Hòa Lan truyền đến Bắc Mỹ vào năm 1660 ở vùng New Amsterdam. Bốn năm sau, người Anh chiếm vùng này và đặt tên là New York.Vào lúc đó, cà phê đã thành một thức uống quen thuộc thay bia vào bữa ăn sáng. Quán cà phê đầu tiên cũng theo dạng thức của Luân Ðôn, tương tự như một quán trọ, có phòng cho thuê, cung cấp bữa ăn, có bán rượu, chocolate và cả cà phê. Quán nào cũng có một phòng ăn chung nơi đó nhiều hoạt động công cộng được thực hiện, dần dần trở thành nơi tụ tập bàn chuyện làm ăn.

Thoạt tiên, cà phê chỉ dành cho giới thượng lưu trong khi trà phổ thông hơn, gần như khắp mọi tầng lớp. Thế nhưng đến năm 1773, khi Anh hoàng George đánh thuế trà và người dân Mỹ nổi lên chống lại thì tình hình thay đổi. Người Mỹ giả dạng làm dân da đỏ tấn công những tàu chở trà đem hàng hóa đổ xuống biển. Biến cố lịch sử dưới tên Boston Tea Party đã làm cho người Mỹ nghiêng qua uống cà phê và chẳng bao lâu thức uống này biến thành một loại quốc ẩm.
thaithanhbinh
thaithanhbinh

Tổng số bài gửi : 254
Join date : 21/04/2011
Đến từ : lưng lửng chai cay...

http://thaithanhbinh.blogspot.com

Về Đầu Trang Go down

VIẾT VỀ CÀPHÊ Empty Re: VIẾT VỀ CÀPHÊ

Bài gửi by thaithanhbinh Wed Aug 10, 2011 4:53 pm

Có nhiều loại cà phê khác nhau, cà phê Arabica hay Robusta, cà phê Bắc Mỹ hay cà phê Việt Nam. Công thức chế biến từ nhà máy hoặc pha chế ở mỗi quán hoặc mỗi người cũng khác nhau, cà phê phin, cà phê vợt, cà phê espresso, cappuccino. Đến cách uống cũng khác nhau, cà phê nguyên chất hay có thêm đường, sữa, cà phê tan liền hay cà phê lọc. Mỗi người một gu, nhưng quy chung, cà phê là người tình tri kỷ của đàn ông.

VIẾT VỀ CÀPHÊ Cafe2

1.
Uống cà phê thể hiện bản lĩnh đàn ông

Có khi nào bạn bước vào quán cà phê và gọi một ly nước chanh hay chai nước ngọt? Cũng được thôi nhưng hãy nhìn những chàng trai xung quanh, họ toàn kêu “nâu” hoặc “đen”. Bạn là nữ thì là chuyện khác, mạnh mẽ và đàn ông hơn là phải chọn cà phê.

Sáng sớm, cánh đàn ông thường bắt đầu câu chuyện bên ly cà phê từ hàng quán vỉa hè đến nhà hàng sang trọng. Đàn ông cho rằng cà phê là thức uống đặc trưng cho tính cách của họ đôi lúc mạnh mẽ, đôi lúc nhạt đắng rất đỗi tùy tiện. Uống nóng, uống lạnh, uống với đường hay sữa, uống với bạn, lúc
làm việc hay một mình, cà phê đều “chiều” tất. Uống cà phê không nhàm chán như khui một lon nước ngọt. Đây là đồ uống đánh thức nhiều giác quan từ khứu giác, vị giác đến cả hệ thần kinh.

Đôi khi quý ông quên cảm ơn ly cà phê bởi nó đã mang lại niềm hưng phấn và sự tỉnh táo trong công việc cho họ. Gọi một ly cà phê mỗi khi đến quán dường như là vô thức. Quý ông khó dứt bỏ cà phê như dứt bỏ người tình, khi đam mê thì trở thành thói quen.

VIẾT VỀ CÀPHÊ Cafe3

2.
Cà phê phin mới đúng điệu

Cà phê phin của Việt Nam luôn đậm đà, mang hương vị truyền thống và luôn được ưa chuộng bởi mọi tầng lớp. Cuộc sống thường nhật với bao bộn bề lo toan, không lúc nào có sẵn một ly cà phê phin để nhấm nháp. Nghiện cà phê phin quá thì cà phê pha sẵn hay cà phê lon là lựa chọn thay thế, thế nhưng đầu óc luôn tâm niệm “chỉ là nhất thời thôi nhé”.

Cà phê phin không dành cho người uống vội. Cái thú của việc uống cà phê không nằm ở chỗ uống mà là việc chờ đợi từng công đoạn pha chế cho đến khi cà phê chỉ còn đọng ở đáy cốc. Cô gái bạn hẹn kéo căng giờ cao su quá, trong lúc chờ đợi nhìn những giọt cà phê rơi sẽ làm thời gian ý nghĩa hơn.

Uống cà phê phin không thể uống ừng ực như bia mà từ từ từng ngụm nhỏ để cảm cái mùi vị và đâu đó lẩn khuất ưu tư cuộc sống. Một tách cà phê phin hiện diện cho sự sảng khoái, thư giãn đồng thời tượng trưng cho sự khát khao thú an nhàn, thảnh thơi.

3. Cách nhận biết cà phê ngon

Hẳn một tín đồ của cà phê sẽ không chấp nhận khi uống một tách cà phê “giả dối”. Làm thế nào để biết cà phê bạn thưởng thức là cà phê
nguyên chất có lợi cho sức khỏe, tuổi thọ và cả nhan sắc của bạn?


Để nhận biết loại nào là bột cà phê nguyên chất, bạn cần có sự tinh tế khi xem xét độ xốp, độ ẩm, màu, mùi của nó.
Độ xốp

Cà phê dễ bị trộn với các loại hạt ngũ cốc khác nên cách
thử hay nhất là cho một nhúm cà phê nhỏ lên mặt nước. Sau vài phút
nếu bột cà phê nổi không chìm thì là thật. Ngược lại chìm hoặc hòa tan
trong nước thì đó là giả hoặc đã pha trộn. Bột cà phê nguyên chất
rất nhẹ, có độ xốp, tơi và rời. Các loại hạt đậu, bắp rang
khi xay thì bột có độ mịn không đồng đều, không có độ tơi
xốp như bột cà phê nguyên chất.

Độ ẩm

Bột cà phê nguyên chất ít ngậm nước, không có nhiều độ ẩm,
ngược lại với các loại ngũ cốc khác. Người ta thường trộn
hạt đậu và bắp vào cà phê, kèm theo là hóa chất, hương liệu
cà phê trước khi xay ra bột. Bạn đừng nên chọn loại bột cà phê
có vẻ ẩm ướt, thậm chí vón cục lại vì chắc chắn đó không
hải là loại ngon.

VIẾT VỀ CÀPHÊ Cafe5VIẾT VỀ CÀPHÊ Cafe6
Màu


Khi rang đến nhiệt độ và thời gian thích hợp, bột cà phê có màu nâu đậm. Nếu hạt cà phê rang chưa đến nhiệt độ và thời gian nổ lần một thì bột có màu vàng sáng vị chua, và mùi nồng. Để nhuộm màu cà phê, người ta sử dụng hạt bắp rang để độn vào cà phê vì nó có màu đen đậm.

Mặt khác, hạt các đậu nành rang và xay ra bột có màu nâu đậm đục, ngã vàng đục, hoàn toàn không giống màu nâu đậm của bột cà phê.

Mùi

Nhiều người vẫn bị lầm lẫn và đánh giá cao mùi của hương liệu hóa học được tẩm vào đậu, bắp bởi vì họ ít có dịp ngửi mùi cà phê bột
nguyên chất. Bắp và đậu nành cũng có mùi hơi tanh, tinh tế một chút, bạn có thể nhận thấy khi ngửi. Bột đậu nành có mùi gắt, hòa quyện với hương liệu bốc lên một mùi thơm nặng nề chứ không dịu dàng như mùi nguyên thủy của cà phê rang.

* Cà phê nguyên chất khi pha

Nếu bạn có nhã hứng pha một tách cà phê phin thì một số cách nhận biết sau sẽ giúp bạn.

Đặc tính của cà phê nguyên chất là rất tơi xốp, chứa nhiều khoang không khí bên trong. Khi chế nước sôi vào phin chứa cà phê nguyên chất, lập tức bột cà phê sẽ nở phồng lên, sủi bột mạnh, thậm chí tràn ra ngoài phin.

Nếu bột ấy không nở phồng lên mà xẹp xuống, bốc mùi thơm nồng nặc cho biết thành phần cà phê trong phin rất ít. Loại bột này chắc chắn có tỉ lệ phần trăm rất nhiều bột của các loại hạt khác được tẩm hương liệu nhân tạo nồng độ cao.
thaithanhbinh
thaithanhbinh

Tổng số bài gửi : 254
Join date : 21/04/2011
Đến từ : lưng lửng chai cay...

http://thaithanhbinh.blogspot.com

Về Đầu Trang Go down

VIẾT VỀ CÀPHÊ Empty Re: VIẾT VỀ CÀPHÊ

Bài gửi by thaithanhbinh Wed Aug 10, 2011 4:59 pm

Cà phê và nghĩ

VIẾT VỀ CÀPHÊ Img_suytuchinhjpgppp-10656
Uống cà phê… có hiểu gì về cà phê không mà uống?
Chẳng ai nói uống cà phê cả, chỉ có thưởng thức cà phê thôi!


Anh nhấc phin cà phê, hương thơm len lỏi theo sợi khói thả lên trời sự gợi tình. Em chăm chú theo dõi từng cử chỉ của anh. Anh rót tách đen nóng vào cốc đá nhỏ trong suốt.
Hơi lạnh của đá nhập vào hơi nóng của thứ nước màu hạt huyền.Em nghe thấy gì không?
Thấy gì? Nhạc to quá, át mất tiếng chim rồi…

Âm thanh này em phải nhìn cơ, không nghe được đâu…
Em lặng nhìn vào mắt anh kinh ngạc. Những điều anh nói xa vời quá! Xa vời như ánh mắt của anh. Nó chẳng bao giờ nhìn vào mắt em, nó cứ nhìn đâu đâu ấy, ví dụ như vào dòng nước đen kia vậy!
Anh cũng thấy em xa vời. Chắc vì em còn quá trẻ, em chỉ biết sợ cái chết mà quên rằng mình đang sống.
Âm thanh của sự sống… Nó đấy, tiếng của dòng nước đen chạm vào viên đá trong vắt!
Em chẳng hiểu gì cả... Nó khó nghe và phức tạp như anh!
Anh khoắng nhẹ tách cà phê. Chiếc thìa sắt va vào thành thuỷ tinh lách cách lanh canh
như một cơn gió chạm vào chiếc chuông lủng lẳng treo trên mái hiên. Sao em ngây thơ thế nhỉ? Ngây thơ hay vô tình, vô cảm? Trong cuộc sống, người ta hay bị lầm lẫn hai thứ ấy lắm!
Em sẽ chẳng bao giờ hiểu được đâu!
Đá lạnh toát như ma, nó là thứ được vớt từ nghĩa địa lên! Đá là vật chết và cái làn khói mỏng mảnh bốc lên cũng chỉ là một oan hồn thoát khỏi nấm mồ để đi tìm một linh hồn khác. Đừng nhầm lẫn em nhé! Oan hồn lạnh lẽo ấy không giống luồng khí nóng kia. Nó là tinh thần của một con người khỏe mạnh, thoát khỏi thể xác trong giấc mơ, đi tìm một thứ gì đó có thể làm dịu ngọn lửa hừng hực, hừng hực khắp thân thể. Màu đen của năm
tháng hoà cùng trong vắt của khởi nguyên! Chẳng ai nghĩ rằng cái chết và sự sống lại nằm đè lên nhau như vậy.
Anh nghĩ gì đấy? Nắng đẹp thế kia mà…
Anh giật mình. Ừ! Nắng đẹp thật! Nắng chiếu vào ly cà phê thành màu hổ phách thì sẽ đẹp hơn! Lại mơ tưởng rồi… Ly cà phê quá đen tới nỗi sức mạnh của tia sáng không thể nào khoan thủng được… Thôi thì em hãy cứ ngắm ánh nắng đi và anh sẽ ngắm em.
Quán cà phê tối thứ bảy nhộn nhạo chẳng giống mọi ngày. Trong những tối như thế này, cà phê trở nên vô nghĩa. Người ta quên cả vị đắng và quên cả những sợi khói. Cái chết hay sự sống đều trở nên phù phiếm đối với tiếng ồn. Làm sao để chạy trốn được những thứ tiếng ồn quái quỉ này nhỉ? Dễ thôi! Đứng dậy và tính tiền là xong. Nhưng em chưa đến. Anh đã qua cái tuổi gọi điện hoặc nhắn tin cho ai đó trong lúc chờ đợi để giết thời gian rồi. Hay anh nói chuyện một mình với tách cà phê vậy.
Khói thuốc uốn lượn như một dải lụa nằm song song với hơi nóng toả ra từ cốc cà phê đen. Khi lên tới trời cao, chúng sẽ gặp nhau hay chia ra làm mỗi ngả. Cũng khó lắm, vì những thứ song song thì có bao giờ gặp nhau.
Thời gian chạy đi như những đường thẳng song song. Anh phải thừa nhận một điều rằng ly cà phê chứa nhiều bí ẩn thật, nhưng không thể nào thú vị bằng em. Cà phê đã rỉ thầm vào tai anh một điều: Em chẳng đến đâu. Và cho tới lúc này, anh mới nhận ra một điều: những tiếng ồn chẳng có ý nghĩa gì trước sự đợi chờ…

Gió mang hơi nước mát lịm thốc vào quán cà phê làm chiếc cốc thuỷ tinh rung rung.
Trên bầu trời, mây đen vần vũ đẩy lùi hết trăng sao. Di động reo, anh nhấc máy. Tiếng em nghe hồn nhiên như không:
Em không đến nữa đâu! Sắp mưa rồi, mây bay như ăn cướp ấy! Anh về đi, dính mưa, ướt hết bây giờ…

Đành vậy biết sao! Anh cũng đã chuẩn bị tinh thần rồi mà… Cũng hay đấy chứ! “Mây bay như ăn cướp!” Chẳng ai ví mây bay như em. Một điều chắc chắn em sẽ không bao giờ trở thành nhà văn được rồi… Ừ! Mây bay như ăn cướp…
Cũng đúng đấy chứ! Mây trắng thì chẳng bao giờ bay nhanh cả, chỉ có mây đen mới vội vàng, hấp tấp, chộp giật lấy một cơn mưa thừa thãi của mùa thu! Được rồi, đợi đấy, để anh thử xem cái thứ mây bay như ăn cướp ấy có đuổi kịp anh hay không…

Mưa rả rích trên mái ngói… Mưa lang thang trong tán lá lốm đốm vàng… Lá không đủ già và gió chưa đủ mạnh, chỉ có những bước chân nhún nhảy của mưa mới có thể bứt lá lìa cành chao đảo rơi xuống khoảnh sân lát gạch. Em giật mình vì một chiếc lá vàng bị gió vô tình đẩy vào, chặn ngang luồng hơi toả ra từ tách nâu nóng.

Đợi anh trong chiều mưa thật buồn. Em sẽ không bao giờ ngồi đếm xem có bao nhiêu chiếc lá rụng, em sẽ già đi mấy tuổi mất. Ngồi trong cái quán này,em đã thấy mình già lắm rồi. Anh nhìn lại xem: những bức tường rêu phong loang lổ, những vật dụng cũ kỹ từ thời Pháp thuộc, một ít nhạc Trịnh,… và sự tĩnh lặng. Tĩnh và lặng có gì khác nhau nhỉ? Em chẳng muốn trả lời câu hỏi ấy. Trả lời những câu hỏi để tìm một đáp án hoàn hảo nhất có nghĩa là già đi rồi. Đó là lý do tại sao em không muốn hiểu thứ âm thanh của sự sống mà anh vẫn nói. Chẳng lẽ anh không muốn thử yên tĩnh trong ý nghĩ và thưởng thức vị cà phê ưa thích của anh đi… Em thấy thật buồn cười khi người ta phải nghĩ quá nhiều… Cà phê là cà phê mà đá là đá. Chẳng có cái nào là chết và sống hết. Chỉ đơn giản rằng hơi nóng của cà phê dịu lại nhờ đá trong khi đá lại tan ra thành nước loãng. Nghĩ tới điều ấy, thật buồn phải không anh! Thôi chết… Em lại nghĩ quá nhiều rồi.

Trời dâng nắng tưng bừng. Trời vừa chợt mưa lại vừa chợt nắng, rồi có khi lại cùng nhún nhảy khiêu vũ trong tầng lá xanh mướt, làm bóng nhẵn cả những đoạn gân guốc trên thân cây. Từ dưới bộ rễ xù xì của cây si già, một con chuột chạy ra. Nó bị lạc giữa một sân ngập lá vàng ướt rơi. Nó say mất rồi, say vì màu vàng của nắng hay màu vàng của
lá? Nắng là một màu vàng sống động còn lá lại là màu vàng chết… Nó ngơ ngác ngước nhìn lên hai tách cà phê đá đặt trên bàn rồi lủi vào cái ổ của mình dưới gốc cây…
thaithanhbinh
thaithanhbinh

Tổng số bài gửi : 254
Join date : 21/04/2011
Đến từ : lưng lửng chai cay...

http://thaithanhbinh.blogspot.com

Về Đầu Trang Go down

VIẾT VỀ CÀPHÊ Empty Re: VIẾT VỀ CÀPHÊ

Bài gửi by Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết